1. Tư Quy – Vương Bột: 思归: /sī guī/
Bản gốc:
思归
sī guī
长江悲已滞,
chángjiāng bēi yǐ zhì,
万里念将归。
wànlǐ niàn jiāng guī.
况属高风晚,
kuàng shǔ gāo fēng wǎn,
山山黄叶飞。
shān shān huángyèfēi.
Dịch âm Hán Việt:
Tư quy
Trường Giang bi dĩ trệ,
Vạn lý niệm tương quy.
Huống thuộc cao phong vãn,
Sơn sơn hoàng diệp phi.
Dịch nghĩa:
Nỗi thương đau đã lắng đọng trên sông Trường Giang,
Ở nơi xa muôn dặm mong nhớ lúc trở về.
Huống hồ đương lúc cuối thu,
Lá vàng tung bay trên núi non trùng điệp.
2. Tĩnh Dạ Tứ – Lý Bạch: 静夜思 /jìng yè sī/
Bản gốc:
床前明月光,疑是地上霜.
chuáng qián míng yuè guāng, yí shì dì shàng shuāng.
举头望明月,低头思故乡.
jǔ tóu wàng míng yuè, dī tóu sī gù xiāng.
Dịch âm Hán Việt:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch thơ (Tương Như):
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
3. Xuân Vọng – Đỗ Phủ:春望: /chūn wàng/
Bản gốc:
春望
chūn wàng
国破山河在,
guó pò shānhé zài,
城春草木深。
chéng chūn cǎomù shēn.
感时花溅泪,
gǎn shí huā jiàn lèi,
恨别鸟惊心。
hèn bié niǎo jīng xīn.
烽火连三月,
fēnghuǒ lián sān yuè,
家书抵万金。
jiāshū dǐ wàn jīn.
白头搔更短,
báitóu sāo gèng duǎn,
浑欲不胜簪。
hún yù bùshèng zān.
Dịch âm Hán Việt:
Xuân vọng
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hỏa liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thắng trâm.
Dịch thơ Trần Trọng Kim:
Nước phá tan, núi sông còn đó,
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu.
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng.
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt,
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn.
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun,
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.
Dịch thơ Trương Văn Tú (Lãng Nhai):
Nước mất nhà tan còn sông núi,
Xuân thành cây cỏ mọc thâm u.
Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ,
Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly.
Khói lửa binh đao liền ba tháng,
Thư nhà nhận được đáng vạn ngân.
Tóc bạc như sương càng thưa thớt,
沒有留言:
張貼留言